北部における社会経済の回復と発展、南部の完全な解放(1973-1975)

Khôi phục và phát triển kinh tế – xã hội ở miền Bắc, giải phóng hoàn toàn miền Nam (1973-1975)

Miền Bắc khôi phục và phát triển kinh tế – xã hội, ra sức chi viện cho miền Nam

Hiệp định Pari năm 1973 được kí kết, quân Mĩ cùng với quân đồng minh rút khỏi nước ta, làm thay đổi so sánh lực lượng ở miền Nam có lợi cho cách mạng.

Miền Bắc trở lại hòa bình, vừa tiến hành khắc phục hậu quả chiến tranh, khôi phục và phát triển kinh tế – xã hội, vừa tiếp tục chi viện cho tiền tuyến miền Nam.

Đến cuối tháng 6-1973, miền Bắc căn bản hoàn thành việc tháo gỡ thủy lôi bom mìn do Mĩ thả trên biển, trên sông, bảo đảm đi lại bình thường.

Sau hai năm 1973-1974, về cơ bản miền Bắc khôi phục xong các cơ sở kinh tế, các hệ thống thủy nông, mạng lưới giao thông, công trình văn hóa, giáo dục, y tế. Kinh tế có bước phát triển.

Tổng sản phẩm xã hội năm 1973 cao hơn năm 1965; năm 1974 cao hơn năm 1973 là 12,4%.
Sản lượng lúa năm 1973 là 5 triệu tấn; đến năm 1974, mặc dù có những khó khăn do thiên tai, miền Bắc cũng đạt được 4,8 triệu tấn.
Năm 1974, giá trị tổng sản lượng công nghiệp và thủ công nghiệp tăng 15 % so với năm 1973.

Đến cuối năm 1974, sản xuất công nghiệp, nông nghiệp trên một số mặt quan trọng đã đạt và vượt mức năm 1964 và năm 1971, là hai năm đạt mức cao nhất trong 20 năm xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc.
Đời sống nhấn dân được ổn định.

Thực hiện nghĩa vụ hậu phương, trong hai năm 1973-1974, miền Bắc đưa vào các chiến trường miền Nam, Camphuchia, Lào gần 20 vạn bộ đội, hàng vạn thanh niên xung phong, cán bộ chuyên môn, nhân viên kĩ thuật.
Đột xuất trong hai tháng đầu năm 1975, miền Bắc gấp rút đưa vào miền Nam 57000 bộ đội (trong tổng số 108000 bộ đội của kế hoạch động viên năm 1975).

Về vật chất-kĩ thuật, miền Bắc đã có những nỗ lực phi thường, đảm bảo đầy đủ và kịp thời nhu cầu to lớn và cấp bách của cuộc Tổng tiến công chiến lược ở miền Nam.

Từ đầu mùa khô 1973-1974 đến đầu mùa khô 1974-1975, miền Bắc đưa vào chiến trường hơn 26 vạn tấn vũ khí, đạn dược, quân trang, quân dụng, xăng dầu, thuốc men, lương thực, thực phẩm, trong đó có 4,6 vạn tấn vũ khí đạn dược, 12,4 vạn tấn gạo và 3,2 vạn tấn xăng dầu.

Chi viện cho miền Nam trong thời kì này, ngoài yêu cầu phục vụ nhiệm vụ chiến đấu với trọng tâm tiến tới Tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1975, còn yêu cầu phục vụ nhiệm vụ xây dựng vùng giải phóng trên các mặt
(quốc phòng, kinh tế, giao thông vận tải, văn hóa, giáo dục, y tế ) và chuẩn bị cho nhiệm vụ tiếp quản vùng giải phóng sau khi chiến tranh kết thúc.

北部における社会経済の回復と発展、南部の完全な解放(1973-1975)

北ベトナムは経済と社会を回復、発展させ、南部を支援するために最善を尽くした

パリ協定は1973年に署名され、アメリカ人とその同盟国は私たちの国から撤退し、南部の力の比較すると革命軍が有利になりました。

北ベトナムは平和に戻り、戦争を克服し、社会経済開発の回復して発展させ、南部戦線への支援を提供し続けました。

1973年6月末までに、北ベトナムは基本的に通常の移動を確保するために海上および河川での米国からの地雷および機雷の解体を完了しました。

1973-1974年の2年間、北ベトナムは基本的に経済施設、灌漑システム、輸送、文化、教育、医療施設を回復しました。経済は発展しました。

1973年の社会的総生産は1965年よりも高かった。 1974年には、1973年よりも12.4%高かった。
1973年の麦の生産量は500万トンでした。 1974年までに、自然災害による困難にもかかわらず、北ベトナムは480万トンを達成しました。
1974年、産業および手軽工業品の総生産額は1973年と比較して15%増加しました。

1974年の終わりまでに、いくつかの重要な地域の工業生産と農業生産は、1964年と1971年の域に到達し、それを超えました。
人々の生活は安定しています。

1973年から1974年の2年間で、後方兵站の任務を遂行し、北ベトナムはカンボジアの南部の戦場に持ち込みました。
ラオスは約20万人の兵士、数万人の専門家、技術スタッフを擁していました。
1975年の最初の2か月で急きょ、北は57,000人の兵士(1975年の動員計画の108,000人の兵士のうち)を急いで南に送りました。

物質的および技術的な面では、北ベトナムは並外れた努力を行い、南での戦略的攻撃の大きな緊急の需要を適切かつ迅速に確保しています。

1973年から1974年の乾期から1974年から1975年の乾期の間で、北ベトナムは260,000トン以上の武器、弾薬、軍事装備、ガソリン、薬、食料を戦場にもたらしました。
46,000トンの弾薬、124,000トンの米、および32,000トンのガソリンなどを含んでいます。

この期間中の南部への支援は、一般攻撃と1975年の春の決起に焦点を当てた戦闘任務を果たすための要件と、解放された地域を建設する側面も必要としました。
(防衛、経済、輸送、文化、教育、衛生)、戦争が終わった後に解放された地域を平定する作業の準備をします。

コメント