2.北ベトナムは破壊的な戦争と戦っており、同時に後方兵站の義務を実行している。

  1. Miền Bắc vừa chiến đấu chống chiến tranh phá hoại, vừa sản xuất và làm nghĩa vụ hậu phương

Ngày 6-4-1972, Mĩ cho máy bay ném bom bắn phá một số nơi thuộc khu IV cũ. Ngày 16-4-1972, Níchxơn chính thức tiến hành cuộc chiến tranh bằng không quân và hải quân phá hoại miền Bắc (lần thứ hai); đến ngày 9-5-1972, chúng tuyên bố phong tỏa cảng Hải Phòng cùng các cửa sông, luồng lạch, vùng biển miền Bắc.

Nhờ được sự chuẩn bị trước với tư thế luôn sẵn sàng chiến đấu, miền Bắc đã chủ trương, kịp thời chống trả địch ngay từ trận đấu.

Trong điều kiện chiến tranh ác liệt, các hoạt động sản xuất, xây dựng ở miền Bắc vẫn không ngừng trệ, giao thông vận tải bảo đảm thông suốt.

Ngày 14-12-1972, gần hai tháng sau khi tuyên bố ngừng ném bom bắn phá miền Bắc từ vĩ tuyến 20 trở ra, để hỗ trợ cho mưu đồ chính trị-ngoại giao mới.
Níchxơn phê chuẩn kế hoạc mở cuộc tập kích chiến lược đường không bằng máy bay B52 vào Hà Nội, Hải Phòng và một số thành phố trong 12 ngày đêm liên tục, bắt đầu từ tối 18 đến hết ngày 29-12-1972, nhằm giành một thắng lợi quân sự quyết định, buộc ta kí một hiệp định có lợi cho Mĩ.

Quân dân miền Bắc đã đánh trả không quân Mĩ những đòn đích đáng, bắn rơi 81 máy bay (trong đó có 34 máy bay B52 và 5 máy bay F111), bắt sống 43 phi công Mĩ, đập tan cuộc tập kích chiến lược đường không bằng máy bay B52 của chúng. Thắng lợi này được coi như trận “Điện Biên Phủ trên không”.

Máy bay Mĩ rơi trên đường phố Hà Nội

Tính chung trong cả cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ hai (từ ngày 6-4-1972 đến ngày 15-1-1973), miền Bắc đã bắn rơi 735 máy bay Mĩ (trong đó có 61 máy bay B52 và 10 máy bay F111), bắn chìm 125 tàu chiến, loại khỏi vòng chiến đấu hàng trăm phi công Mĩ.

“Điện Biên Phủ trên không” là trận thắng quyết định của ta, buộc Mĩ phải tuyên bố ngừng hẳn các hoạt động chống phá miền Bắc (15-1-1973) và kí Hiệp ước Pari về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam (27-1-1973).

Trong thời gian Mĩ ngừng ném bom sau chiến tranh phá hoại lần thứ nhất và cả trong chiến tranh phá hoại lần thứ hai, miền Bắc vẫn bảo đảm tiếp tục nhận hàng viện trợ từ bên ngoài, chi viện theo yêu cầu của tiền tuyến miền Nam và cho cả chiến trường Lào, Campuchia.

Trong 3 năm (1969-1971), hàng chục vạn thanh niên miền Bắc được gọi nhập ngũ, có 60% trong số đó lên đường bổ sung cho các chiến trường miền Nam, Lào, Camphuchia; khối lượng vật chất đưa vào các chiến trường tăng gấp 1,6 lần so với 3 năm trước đó.
Năm 1972, miền bắc đã động viên hơn 22 vạn thanh niên bổ sung cho lực lượng vũ trang và đưa vào chiến trường nhiều đơn vị bộ đội được huấn luyện và trang bị đầy đủ, cùng với khối lượng vật chất tăng gấp 1,7 lần so với năm 1971.

2.北ベトナムは破壊的な戦争と戦っており、同時に後方兵站の義務を実行している。

1972年4月6日、米国は旧区域4の一部を爆撃するために爆撃機を送りました。
1972年4月16日、ニクソンは公式に空と海軍による戦争を行い、北ベトナムを破壊しました(2回目)。
1972年5月9日までに、彼らはハイフォン港と河口、支川、北部の海域封鎖を宣言しました。

常に戦う準備がされているおかげで、北ベトナムは、すぐに敵と戦うことができます。

激しい戦争でも、北部の生産および建設活動は停滞せず、輸送は円滑に確保されました。

1972年12月14日、20回の爆撃を停止して2ヵ月後、新しい政治外交計画を発表するという策略。
ニクソンは、ハノイ、ハイフォン、およびいくつかの都市で、B52航空機による戦略的空襲を、1972年12月29日の18日の夕方から12日間連続して12日間連続する計画を承認しました。
決定的な軍事的勝利を勝ち取り、米国に有益な条約を署名させるつもりでした。

北ベトナム軍は適切な攻撃で米空軍と戦い、
81機の航空機(34機のB52機と5機のF111機を含む)を撃墜し、43機のアメリカ人パイロットを捕獲、B52機の戦略空襲を打ち破りました。
この勝利は「空中のĐiện Biên Phủ」の戦いと言えます。

ハノイの空でアメリカの飛行機が墜落しました

一般に、2回の破壊戦争(1972年4月6日から1973年1月15日まで)の間、
北は735機のアメリカの飛行機(61機のB52機と10機のF111機を含む)を撃墜しました。
125隻の軍艦を撃沈し、数百人のアメリカ人飛行士を撃退しました。

「空中の Điện Biên Phủ 」は私たちの決定的な勝利であり、米国は北部に対する活動の完全な停止を宣言し(1973年1月15日)、戦争の終了に関してパリ条約に署名。
ベトナムの平和を回復します(1973年1月27日)。

アメリカが最初の破壊的な戦争の後、また2回の破壊的な戦争の間、爆撃を停止した期間中も
北ベトナムは引き続き外部からの援助を受け、南部戦線とラオスとカンボジアの戦場の要請で支援を提供しました。

3年間(1969-1971)に、北部の数万人の若者が入隊し、そのうち60%が南部、ラオス、カンボジアの戦場を補うことを目指しました。
戦場に投入される材料の量は、過去3年間に比べて1.6倍増加しました。

1972年、北軍は22万人を超える若者を動員して軍隊を補い、十分に訓練と整備された軍隊を戦場にもたらしました。
投入された材料の量は1971年の1.7倍です。

コメント